Thật hoan hỉ khi vừa biết tin Sayadaw U Paññāvaṃsābhivaṃsa đã hoàn tất phần thi viết của chương trình thi Tam Tạng - kỳ thi dài và khó nhất thế giới để chính thức trở thành Ngài Tam Tạng thứ 15, Bậc Thông thuộc Thấu suốt Tam Tạng (Tipiṭakadhara Tipiṭakakovida) - một bậc đa văn đáng tôn kính trong thế giới Phật giáo.
Thử tưởng tượng, trong thế giới hơn 7 tỷ người, trải qua 72 năm của kì thi Tam Tạng uyên thâm và rộng lớn (một kì thi kéo dài tới 5 năm), mới chỉ có 15 vị tỳ khưu hoàn tất cả phần tụng đọc và phần thi viết để trở thành một bậc thông thuộc thấu suốt Tam Tạng như vậy. Thật hiếm có và phi thường!
TRUYỀN KỲ VỀ NHỮNG NGÀI TAM TẠNG
Cho đến nay, trừ những người nghiên cứu chuyên sâu thì phần lớn mọi người đều còn mơ hồ về sự đặc biệt của một vị Tam Tạng. Chính vì vậy, người viết bài này quyết định chia sẻ những hiểu biết còn hạn hẹp của mình được tích luỹ trong hành trình tìm hiểu những kiến thức về Phật giáo và trải nghiệm trực tiếp về thiền trên đất nước Miến Điện.
Tam Tạng chính là danh vị trao tặng cho một số lượng đếm trên đầu ngón tay những vị tăng chuyên sâu về pháp học được lựa chọn từ 500.000 tăng sĩ ở khắp Miến Điện thông qua các kỳ thi dài và khó nhất thế giới. Đó là những bộ nhớ siêu phàm với khả năng ghi nhớ và thông suốt toàn bộ 16.000 trang của bộ Tam Tạng (Tipiṭaka) hay còn gọi là Tam Tạng kinh điển Pāḷi, ghi lại những lời giáo huấn của Đức Phật và nền tảng giáo lý Phật giáo đồng thời cũng là những người chiến thắng ở các kỳ thi viết (bao gồm cả bộ chú giải và phụ chú giải) về các nội dung nói trên.
Trên thế giới, chỉ có 2 quốc gia được coi là thành trì vững chắc của Phật giáo Nguyên thuỷ là Sri Lanka và Miến Điện vẫn còn duy trì truyền thống tổ chức những kỳ thi quốc gia để vinh danh những bộ nhớ siêu việt về pháp học, trong đó Miến Điện được đánh giá là nổi trội hơn cả. Kể từ khi giành được độc lập từ tay thực dân Anh vào năm 1948, cả chính quyền dân sự lẫn quân sự của Miến Điện đều dành sự ủng hộ tuyệt đối cho Phật giáo Nguyên thuỷ và không ngừng thực hiện nhiều biện pháp tích cực để trợ giúp cho sự tăng trưởng của pháp học và pháp hành. Bản Hiến pháp năm 1947 nêu rõ: “Nhà nước công nhận Phật Giáo có vai trò đặc biệt, đó là đức tin của tuyệt đại đa số người dân thuộc Liên bang”. Từ năm 1948, chính quyền của Thủ tướng U Nu đã khởi động một chương trình nhằm tuyển chọn và tôn vinh những cá nhân kiệt xuất có thể thuộc lòng, thông suốt và tụng lại được toàn bộ nội dung của bộ Tipiṭaka kinh điển (với dung lượng khoảng 8.026 trang và 2,4 triệu từ thuộc ngôn ngữ Pāḷi). Cho đến nay, trải qua 63 kỳ thi và gần 7 thập niên, mới chỉ có vỏn vẹn 12 ngài Tam Tạng được chính thức tấn phong (số liệu cập nhật đến nay là 13 vị) và trở thành quốc bảo của đất nước Miến Điện, được chính phủ cấp xe, cấp đất xây chùa, hưởng mọi đãi ngộ xứng đáng và được chu cấp suốt đời.
Truyền thống biên tập kinh điển trên lá buôn đã xuất hiện sau khi Phật Niết bàn 500 năm
Nếu có kỳ thi nào lớn nhất, dài nhất, sâu sắc nhất và cũng khó nhất thế giới thì đó chính là kỳ thi tuyển chọn một vị Tam Tạng. Phải mất 5 năm để hoàn thành một cuộc chạy marathon như vậy, và trong quá khứ cũng phải mất tới 4 năm. Trong 2 năm đầu tiên, các ứng viên phải trải qua bài thi sát hạch Tạng Luật (Vinaya Piṭaka) và bình quân một thí sinh phải mất 20 ngày mới hoàn tất phần thi của mình (tụng liên tục 5 tập kinh với tốc độ trung bình 3 ngày/tập cộng thêm 5 ngày phải hoàn thành phần thi viết liên quan đến bộ chú giải và phụ chú giải). Vào năm thứ ba, các ứng viên phải tụng 3 tập của Tạng Kinh (Suttanta Piṭaka). Vào năm thứ tư và thứ năm, các ứng viên phải tụng 7 tập thuộc Tạng Vi diệu pháp (Abhidhamma Piṭaka).
Mặc dù đều phải vượt qua những kỳ thi hóc búa và gian khổ nhưng không phải vị Tam Tạng nào cũng đều sở hữu những danh hiệu giống nhau. Có bốn danh hiệu khác nhau dành cho một bậc Tam Tạng và người nào càng nhiều danh hiệu thì càng chứng tỏ sự lỗi lạc của mình. Danh hiệu thứ nhất, đó là Tipiṭadhara, có nghĩa là Bậc Thông Thuộc Tam Tạng dành cho người vượt qua các kỳ sát hạch vấn đáp, trì tụng lại toàn bộ kinh điển. Danh hiệu thứ hai làTipiṭakovida, nghĩa là Bậc Thấu suốt Tam Tạng, dành cho những vị không những xuất sắc vượt qua tất cả các phần thi vấn đáp Tam Tạng mà còn cả kỳ thi viết, giải đáp được thấu đáo phần Chú giải và Phụ chú giải trong đó có những nội dung vô cùng hóc búa. Danh hiệu thứ ba là Maha Tipiṭakovida, nghĩa là Bậc Đại Thấu Suốt Tam Tạng, dành cho những bậc đã giành được danh hiệu thứ hai với sự xuất chúng và phi thường. Danh hiệu thứ tư, vô cùng cao quý,Dhammabhandagarika, Bậc Giữ gìn Kho tàng Pháp bảo dành cho những ngài Tam Tạng có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp truyền bá Phật pháp và mang lại nhiều lợi ích cho quê hương, đất nước. Tại kỳ thi đầu tiên được tổ chức tại Yangon vào năm 1948 ngay sau khi Miến Điện giành được độc lập từ tay thực dân Anh, không có tên của người thi đậu được xướng lên. Mãi đến tận năm 1953, Miến Điện mới có bậc Tam Tạng đầu tiên là Ngài Mingun Sayadaw (pháp danh là U Vicittasarabhivamsa). Khả năng ghi nhớ siêu việt của Mingun Sayadaw đã được Sách Kỷ lục Guiness công nhận từ năm 1985 và cho đến nay, Ngài vẫn được coi là một trong những trí nhớ siêu việt nhất của nhân loại và là vị Tam Tạng vĩ đại nhất trong lịch sử Miến Điện, không chỉ vì Ngài là Đệ Nhất Tam Tạng mà còn vì vai trò chủ chốt của Ngài trong cuộc tập kết kinh điển Pāḷi lần thứ VI.
Ngài Mingun Sayadaw đã viên tịch vào năm 1993 nhưng người viết bài, khi còn ở trên đất nước Miến Điện đã trực tiếp được tiếp xúc với những truyền nhân của Ngài, trong đó có những vị đã đậu Tam Tạng và được nghe những câu chuyện về trí nhớ phi thường của Ngài. Đó là vào năm 1985, khi một đoàn của Kỷ lục Guiness thế giới đến Miến Điện để trực tiếp kiểm tra và ghi nhận khả năng ghi nhớ siêu phàm của Ngài. Mingun Sayadaw đã khiến tất cả những người tham dự phải kinh ngạc khi Ngài tụng toàn bộ Tam Tạng kinh điển, không quên một câu, không đọc sai hay vấp dù chỉ một từ nào. Đã rất choáng váng vì điều này, một người trong đoàn vẫn còn tò mò hỏi: “Thưa Sayadaw, Ngài còn có khả năng ghi nhớ thứ gì khác nữa không?”. “Có chứ, hãy đưa cho tôi một tờ báo bất kỳ”, Ngài Mingun nói. Thế là một người trong đoàn đưa cho Ngài một tờ báo mới. Ngài cầm tờ báo và chỉ đọc lướt qua một lượt rồi nói: “Nào, bây giờ hãy hỏi tôi một đoạn bất kỳ”. Và trong sự kinh ngạc đến thảng thốt của những người tham dự, Ngài Mingun đọc vanh vách toàn bộ nội dung của cột báo hay trang báo Ngài được hỏi tới. Dường như trong Ngài đã có sẵn một cái máy quét (scanner) kết nối với một máy tính có ổ cứng chứa dữ liệu vậy.
Cho đến nay, người ta vẫn đi tìm lý giải cho câu hỏi: “Làm thế nào mà một vị Tam Tạng lại có thể thuộc nằm lòng với sự am hiểu sâu sắc tới hơn 8.026 trang của bộ kinh điển đồ sộ và không dễ dàng để hiểu được như vậy?”. Người viết bài đã bỏ ra hàng tháng trời ở những trung tâm thiền và pháp học nổi tiếng của Miến Điện, nhờ đó có hình dung đầy đủ về cách thức đào tạo ra một vị Tam Tạng. Theo đó, hàng năm, những bậc thầy Pháp học uyên thâm toả đi khắp đất nước để tuyển chọn các thiếu niên có tư chất thông minh, sau đó đưa họ tới các trung tâm Pháp học danh tiếng và cho họ thọ giới xuất gia Sa-di (hình thức xuất gia đầu tiên của các tăng sĩ theo truyền thống Phật giáo Nguyên thuỷ). Tại đây, các vị Tam Tạng tương lai được huấn luyện bởi những vị thầy có tên tuổi, với một chế độ học tập khắc nghiệt: hàng ngày phải thức dậy và bắt đầu học từ lúc 4 giờ sáng, cứ khoảng 15 phút là học thuộc lòng một trang sách và hết buổi sáng, người nào nhanh sẽ học thuộc được khoảng 10-15 trang. Thời gian còn lại trong ngày là ôn lại bài cũ. Một bí quyết quan trọng cho một vị học Tam Tạng, đó là hạn chế các đối tượng bên ngoài có thể làm phân tâm và siêng năng ôn lại bài cũ. Vì thế mà một số vị đã sử dụng các phương pháp của thiền định để hỗ trợ cho khả năng ghi nhớ của mình. Tối thiểu phải mất khoảng 15 năm để hoàn tất một chương trình học như thế này, sau đó một ứng viên sẽ tham gia vào kỳ thi quốc gia để lần lượt thi đậu các danh hiệu Nhất Tạng, Nhị Tạng rồi Tam Tạng. Tất nhiên, chỉ có một số vô cùng ít giành được danh hiệu thứ ba. Thời gian lâu như vậy nên có nhiều vị đậu Tam Tạng khi đã ngoài bốn mươi tuổi, thậm chí có người ở tuổi 55 mới bước lên bục vinh quang như Ngài Kondanna (1997). Tuy nhiên, cũng có những trường hợp đặc biệt, đậu Tam Tạng ở tuổi 27 như Ngài Sumingalalankara (1973).
Theo số liệu thống kê của Hội đồng thi Tam Tạng quốc gia Miến Điện, tính đến năm 2007, trải qua lịch sử 59 năm, số ứng viên đăng ký tham gia thi lên tới con số 7.103, trong đó số tham dự thực sự là 5.474, số người vượt qua từng phần thi là 1.662, nhưng chỉ có 11 vị được trao danh hiệu Tipiṭadhara Tipiṭakovida, Bậc Thông Thuộc Thấu Suốt Tam Tạng (con số mới nhất là 13 vị). Trong số những nhân vật kiệt xuất này, có bốn vị đã không còn tại thế. Những bậc Tam Tạng đã viên tịch có thể đang hưởng pháp lạc tối thượng, hay sự bất sinh bất diệt của Niết Bàn hay tái sinh lên các cõi trời có phước báu thù thắng, nơi họ tiếp tục hành trình thuyết giảng Phật pháp. Người ta cũng tính được rằng, trong tương lai gần, dự kiến có ba Bậc Thông Thuộc Tam Tạng sẽ vượt qua các kỳ thi viết với các nội dung về chú giải để đạt danh hiệu Bậc Thấu Suốt Tam Tạng, kết thúc hành trình dài và đầy gian khổ này. Ngoài ra, có một số ứng viên còn lại cũng đã thông thuộc ít nhất một Tạng. Số vị Nhất Tạng hiện nay lên tới con số 114, Nhị Tạng là 13 người và Hai Tạng rưỡi là 5 người.
Trong thời đại ngày nay, nhiều người sẽ đặt câu hỏi về sự khôn ngoan của việc tổ chức một kỳ thi dài và căng thẳng như vậy để chọn ra một vị Tam Tạng trong khi toàn bộ Đại Tạng kinh Pāḷi đã được khắc trên lá buôn khô, trên phiến đá, được in thành sách và trong cả những đĩa CD-Rom và rất khó có khả năng những văn bản Tipiṭa sẽ biến mất khỏi thế giới này. Tuy nhiên, trên thực tế, việc so sánh giữa lưu trữ vật lý với lưu giữ bằng trí nhớ của con người là một điều hoàn toàn khập khiễng. Một bậc thuộc nằm lòng Tam Tạng có thể sử dụng những kiến thức của mình vào bất cứ lúc nào, với một thái độ đúng đắn và đầy trách nhiệm, truyền tải những thông điệp phù hợp với trình độ hiểu biết, hoàn cảnh tâm lý của người nghe, mang đến sự hiểu biết và giác ngộ, một điều mà không một phương tiện vô tri vô giác nào có thể thay thế được. Bên cạnh đó, những bậc thông suốt Tam Tạng cũng hiểu rõ ân đức Tam Bảo, luôn thẳng bước trên con đường chánh pháp và cống hiến không mệt mỏi để mang đến những lợi ích vô giá cho những người xung quanh. Chính vì thế, mục đích tối thượng của kỳ thi Tam Tạng chính là quảng bá rộng rãi những lời giáo huấn của Đức Phật, những lời dạy được coi là món quà cao quý nhất trên thế gian và chính là món quà Pháp bảo dưới dạng thức thuần khiết nhất.
Đàm Đức Anh