Góc nhìn của Phật giáo về “Kinh tế” (I)

Chủ nhật, 01/09/2019, 11:35 GMT+7

    Phật giáo không cách mạng kinh tế nhưng Phật giáo đề cập đến những khía cạnh đạo đức của kinh tế học. Đức Phật chỉ dẫn và đưa ra những quy định liên quan đến những khía cạnh đặc biệt của kinh tế mà đến nay tính thích ứng của nó vẫn còn hiện hành.

    Đức Phật dạy về bốn nhu cầu là ăn, mặc, ở và thuốc men. Đức Phật nhấn mạnh: “Nguồn gốc của vô đạo và tội ác như trộm cướp, bạo động, thù hận, do nghèo đói, túng thiếu (dālliddiya) mà ra. Dưới đây là một số tư liệu đúc kết từ Kinh sách về kinh tế qua góc nhìn Phật giáo.

    Có hai loại tài sản: Vật chất và Tinh thần (Tâm linh)

Của cải vật chất không bảo đảm được cái hạnh phúc chân thực, Đức Phật kêu gọi nỗ lực đạt được tài sản tinh thần hay thánh tài (Ariyadhana).

Của cải vật chất không bảo đảm được cái hạnh phúc chân thực, Đức Phật kêu gọi nỗ lực đạt được tài sản tinh thần hay thánh tài (Ariyadhana).

    Tài sản vật chất

    A.IV.5 – Kinh Tăng Chi Bộ IV: Các vị Tăng sĩ không nên bận tâm hoặc vướng dính đến các khía cạnh của vật chất. Không nên bận tâm đến các loại hình kinh doanh liên quan đến lợi nhuận vật chất. Hãy quan tâm đến tài sản tâm linh để có cơ hội đạt được sự tiến bộ về tinh thần.

    Đối với người tại gia, việc quan tâm đến tiến bộ vật chất là không thể thiếu. Đức Phật không dạy dạng suốt ngày chỉ biết lạy Phật niệm Phật. Hiện nay đa số Phật tử đang rơi vào tình trạng này. Xã hội có cái nhìn rất sai về đạo Phật: Đạo Phật chỉ đào tạo ra những con người chỉ biết chừng đó các công việc. Trong khi lời Đức Phật dạy lại cao siêu hơn nhiều. Trong qúa trình mưu cầu hạnh phúc qua tiện ích vật chất, đạo Phật khích lệ người tại gia không nên lầm nhận vật chất là cứu cánh của cuộc sống. Khích lệ các hình thức hợp pháp trong nghề nghiệp để tạo ra những sở hữu tài sản. Điều này một mặt mang lại những giá trị cao quý cho bản thân, đồng thời góp phần chia sẻ các sở hữu hợp pháp đó đến với các mảnh đời bất hạnh và kém may mắn.

Của cải là tài nguyên làm lợi ích cho xã hội đối với người trí; nó cũng có thể trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của kẻ ngu vì họ trở thành nô lệ cho nó và bị nó sai khiến.

Của cải là tài nguyên làm lợi ích cho xã hội đối với người trí; nó cũng có thể trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của kẻ ngu vì họ trở thành nô lệ cho nó và bị nó sai khiến.

    Sở hữu nhiều tài sản không có nghĩa sở hữu cuộc sống bình an. Nhiều người thụ hưởng vật chất và các tiện ích xã hội nhưng vẫn không là người được hạnh phúc. Lý do được nêu trong Kinh Tăng Chi Bộ là vì họ thiếu tài sản trí tuệ. Trí tuệ chính là một dạng tài sản, đó chính là đóng góp to lớn của đức Phật.

    Nỗi khổ của người sở hữu tài sản: nô lệ tâm lý vào tài sản; cất giấu tài sản và đòi hỏi sự thoã mãn khoái lạc giác quan trên tài sản. Của cải vật chất là những pháp duyên sinh, không thể bảo đảm sự thoả mãn đối với vật sở hữu, vì nó vô thường. Bám chấp vào nó hay nô lệ vào tài sản vật chất dẫn đến ràng buộc và đau khổ.

    Của cải là tài nguyên làm lợi ích cho xã hội đối với người trí; nó cũng có thể trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của kẻ ngu vì họ trở thành nô lệ cho nó và bị nó sai khiến.

    Tài sản Tinh thần (Tài sản tâm linh) - D.III.163,267 – Kinh Trường Bộ III

    Của cải vật chất không bảo đảm được cái hạnh phúc chân thực, Đức Phật kêu gọi nỗ lực đạt được tài sản tinh thần hay thánh tài (Ariyadhana). Khi con người sở hữu được các nhân cách cao quý, con người sẽ biết cách sử dụng những sở hữu tài sản vật chất của mình hợp lý và có những giá trị cao quý.

        (1). Tín tài (Saddhādhana) – tài sản niềm tin.

        (2). Giới tài (Sīladhana) – tài sản đạo đức.

        (3). Tàm tài (Hiridhana) – tài sản hổ thẹn cá nhân.

        (4). Quý tài (Ottappadhana) – tài sản hổ thẹn xã hội.

        (5). Văn tài (Sutadhana) – tài sản kiến thức, học rộng Phật pháp.

        (6). Thí tài (Cāgadhana) – tài sản buông xả, tâm rộng lượng, lòng vị tha, bỏ bỏn xẻn, thích bố thí.

        (7). Tuệ tài (Paññādhana) – tài sản trí tuệ, hiểu nhân quả, hiểu điều thiện ác, chánh kiến.

Các tu sĩ cần phải nỗ lực chính mình để không phụ lòng Đức Phật. Sở hữu tài sản Phật pháp và sở hữu được tài sản trí tuệ.

Các tu sĩ cần phải nỗ lực chính mình để không phụ lòng Đức Phật. Sở hữu tài sản Phật pháp và sở hữu được tài sản trí tuệ.

    Trong nguyên ngữ Pali,  sau từng loại tài sản đức Phật đều dùng khái niệm “dhana”, xem niềm tin, đạo đức và 5 điều còn lại là một tài sản. Đức Phật sáng tạo trong nghệ thuật chơi chữ, Ngài đã sử dụng các dữ liệu xã hội để làm nổi bật được những giá trị cao quý mà con người hầu như không quan tâm đến. 7 đức tính trên bất kỳ ai sở hữu được đều có thể trở thành bậc Thánh.

    Nếu lấy hệ tiêu chí 7 điều liên hệ đến 7 tài sản tâm linh thì Phật tử tại gia ngày nay chỉ được một phần nhỏ của tín – giới – tàm – quý tài. Riêng về Văn tài và Tuệ tài hầu như Phật tử tại gia không có. Tương tự, nếu lấy hệ quy chiếu áp dụng thì Tăng Ni bị thiếu Văn tài và Tuệ tài, ngoại trừ những Tăng Ni được học Phật đến nơi đến chốn và những Tăng Ni tự học do không có điều kiện đến trường Phật học để học.

    Từ lời Đức Phật giảng dạy trong Kinh, cần có nhận thức về tính trách nhiệm của các tu sĩ cần phải nỗ lực chính mình để không phụ lòng Đức Phật. Sở hữu tài sản Phật pháp và sở hữu được tài sản trí tuệ.

    Đức Phật khẳng định: Bảy tài sản cao quý này không bị cướp đoạt, không bị cái gì hư hoại; ai sở hữu chúng thân tâm được an lạc, giàu có.

    Đối với tài sản thứ 6 là Thí tài, nếu tu sĩ Phật sử dụng một cách nhuần nhuyễn loại tài sản này làm việc làm đạo sẽ giúp người đó mở rộng được Phật pháp cho những người chưa hiểu Phật pháp (thông qua từ thiện, trước khi trao tặng tài sản vật chất sẽ hướng dẫn về tài sản tinh thần).

    (Còn tiếp)

Minh Chính (tổng hợp)

Ý kiến của bạn