Ajanta Một Di Tích Độc Đáo
Phật giáo là một trong những tôn giáo lâu đời nhất của nhân loại vẫn còn tồn tại và đang phát triển đến ngày nay. Tuy nhiên theo dòng biến động của lịch sử thì Phật giáo cũng không tránh những thăng trầm. Nếu Phật giáo đã từng gián tiếp hay trực tiếp mang lại chữ viết, văn hóa, triết học và lịch sử cho một số quốc gia trên địa cầu và đánh dấu một cấp bực tiến hóa cao độ cho kho tàng tư tưởng của nhân loại thì Phật giáo cũng đã từng bị hủy diệt ở Ấn độ và nhiều nơi khác.
Chúng ta đều biết đến ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới là Borobudur ở Inđônêxia được khám phá trong vùng rừng rậm của đảo Java vào đầu thế kỷ XIX và ngày nay đã hồi sinh để trở thành 1 nơi chiêm bái và 1 thắng cảnh du lịch trong lòng 1 quốc gia Hồi giáo. Tuy nhiên có lẽ ít ai biết về di sản tuyệt vời khác của Phật giáo là Ajanta cũng đã được khám phá một cách thật tình cờ vào đầu thế kỷ XIX để ngày nay trở thành một nơi hành hương tại Ấn độ, nơi mà Phật giáo đã phát sinh và đã từng biến mất.
...
Ngày 28 tháng 4 năm 1819, có một toán quân lính người Anh thuộc đạo quân viễn chinh ở Ấn độ cưỡi ngựa đi tuần tra dọc theo dãy núi Indhyadri trong một vùng hẻo lánh phía đông bắc tỉnh Aurangabad, tiểu bang Maharashtra nơi miền Tây bắc nước Ấn. Đoàn lính tiến dần vào một hẻm núi thật sâu và hoang dã. Dưới chân họ con suối Waghora chảy xiết, ôm sát vào chân núi và luồn sâu vào hẻm vực. Đại úy John Smith thuộc đội kỵ mã thứ 28 của đoàn kỵ binh đóng ở Madras đang lơ đãng nhìn lên sườn núi dựng đứng thì chợt thấy dường như có những cửa hang trên vách đá. Khá tò mò vì các cửa hang có vẻ không phải là thiên nhiên mà do tay người đục khắc, anh chàng sĩ quan này bèn nhảy xuống ngựa và tìm cách trèo lên vách núi để xem cho biết. Lanh quanh một lúc thì anh ta tìm được cách trèo lên được vì nơi này có nhiều bậc thang khá hẹp đục vào vách đá. Sau khi lên đến nơi thì anh ta cũng chỉ quan sát qua loa cảnh tượng hiện ra trước mắt rồi phải trèo xuống vì các đồng đội còn đang đứng chờ bên dưới. Tuy nhiên anh chàng John Smith vẫn cố lấy bút chì ghi tên mình và ngày tháng vào một góc kín đáo trên một trụ đá ở một cửa hang lớn, và nét bút chì ấy cho đến ngày nay vẫn còn lờ mờ. Sau đó thì các hang động này lại chìm vào sự yên lặng mênh mông của ngàn năm quá khứ. Tuy nhiên câu chuyện khám phá chớp nhoáng của viên đại úy sau đó thỉnh thoảng cũng vẫn được đồn đại trong đoàn quân viễn chinh.
Năm năm sau, vào tháng 2 năm 1824, có một viên trung úy tên là James Alexander thuộc đạo quân xung kích 16 trong đoàn quân viễn chinh Anh quốc quyết định xin nghỉ phép vài hôm để đi săn. Anh trung úy trẻ này rất say mê săn bắn và vẫn thường mong có dịp đi săn trong hẻm vực Waghora vì anh nghe nói nơi đây có rất nhiều thú nhất là các loài thú dữ, xứng đáng với biệt danh "thung lũng cọp" mà người ta gán cho nơi này. Trước khi lên đường bạn bè trong quân ngũ cảnh giác anh ta là ngoài thú dữ ra còn có nhiều thứ nguy hiểm khác nữa, nhất là bọn thổ dân Bhil sinh sống trong các vùng rừng núi thuộc miền trung và tây bắc nước Ấn. Thổ dân Bhil rất ghét người lạ dám cả gan xâm nhập vào lãnh địa của họ. Mặc dù đã được cảnh giác nhưng James Alexander chẳng đếm xỉa gì đến chuyện ấy vì anh ta rất mê săn heo rừng, beo, báo và cọp.
James Alexander nhờ một người thợ săn địa phương dẫn đường. Đoàn đi săn cứ thế mà băng rừng tiến vào hẻm núi Waghora.
Khi vừa đến cửa thung lũng nơi có một dòng suối chảy xiết thì bỗng nhiên có tiếng huýt sáo vọng lại từ phía vách núi trước mặt. Cả đoàn dừng lại để lắng nghe động tĩnh, và đúng là có người đang rình rập vì có nhiều tiếng huýt sáo khác đáp lại từ các bụi rậm và hốc đá chung quanh. Quả đúng là đoàn đi săn đang bị thổ dân Bhil phục kích. Mặc dầu sợ hãi nhưng cả đoàn tay cầm khí giới cứ tiến lên , vừa cẩn thận quan sát chung quanh. Bỗng nhiên nhiều thổ dân Bhil cầm cung tên nhô đầu lên từ các bụi rậm, gốc cây và hốc đá. Cũng lạ là họ không tỏ vẻ gì tức giận hay đang chuẩn bị tấn công mà chỉ có vẻ tò mò đưa mắt theo dõi thế mà thôi. Đoàn săn bắn cũng bớt sợ vì họ biết rằng các mũi tên của thổ dân Bhil đều có tẩm thuốc độc. Trung úy James Alexander vẫn giữ được bình tĩnh và nhận thấy người Bhil có thân hình nhỏ thó, da đen sậm và gần như là trần truồng.
Đoàn săn bắn tiếp tục ngược theo dòng suối để tiến vào hẻm vực trong khi các thổ dân Bhil vẫn rình rập phía sau nhưng chỉ quan sát mà không tấn công. Sau cùng thì đoàn săn bắn cũng tiến được vào giữa hẻm núi, khu này có hình vòng cung giống như hình móng ngựa, chiều ngang độ vài trăm mét. Viên trung úy James Alexander vừa canh chừng các thổ dân Bhil vừa quan sát vách núi trước mặt và bất ngờ anh ta trông thấy khoảng hơn một chục miệng hang cheo leo trên vách đá...Vì tò mò thúc đẩy, trung úy James Alexander bèn ra lệnh cho cả đoàn tìm cách trèo lên để xem. Khi lên được đến nơi thì họ mới biết là các hang đúng là do tay người đục đẽo. Cửa hang hình vòm cung có cột đá chống đỡ và tất cả các hang đều được đục thẳng từ bên ngoài vào trong vách núi. Tường và cột đá ở cửa hang được chạm nổi với các hình người, hình thú vật, hoa, lá....Một số hang bị đá sụp lấp kín lối vào, nhưng một số hang khác vẫn còn kẻ hở có thể chui vào được. Vô cùng kinh ngạc trước quang cảnh đồ sộ của các cửa hang đang hiện ra trước mặt, James Alexander bèn quyết định chui vào bên trong xem sao. Cả đoàn tìm cành và cỏ khô bó lại làm đuốc rồi chui vào một hang. Đoàn người lại tìm thấy 1 cầu thang đưa họ lên các gian phòng ở tầng trên. Tại đây họ thấy có vết tro còn mới và trong một góc tối có một bộ xương người.
Đoàn thám hiểm lại tiếp tục chui vào các hang động khác. Một số hang có kích thước nhỏ và không sâu lắm, nhưng có một số hang khác thì thật mênh mông, trần cao vút như trong một ngôi đền đồ sộ. Trong một hang lớn dưới ánh đuốc bập bùng hiện ra trước mặt họ một pho tượng Phật to lớn và oai nghiêm, trên tường trong hang có nhiều bức tranh vẽ rất tinh xảo và tuyệt đẹp, màu sắc rực rỡ. Cả đoàn như bị mê hoặc. Đến chiều thì họ mới trèo xuống để tìm đường về. Mặc dù không bắn được 1 con thú nào nhưng tay săn James Alexander không hề thất vọng vì anh ta tin chắc là mình đã khám phá ra 1 di tích ngoại hạng, một tu viện đồ sộ và tinh xảo đã chìm vào quên lãng, biến mất trong trong trí nhớ của con người từ lâu...ngoại trừ một số thổ dân Bhil là còn biết đến những di tích đó trong sự thờ ơ.
Một thời gian ngắn sau khi tin đồn viên trung úy James Alexander đã khám phá các hang động trong thung lũng Waghora được lan truyền đi khắp nơi thì các nhà khảo cổ kéo đến và họ đều xác nhận đấy là 1 trung tâm Phật giáo lâu đời và đồ sộ chưa nơi nào sánh kịp. Các nhà khảo cổ bèn mượn tên của ngôi làng gần nhất là Ajanta để đặt tên cho di tích này. Các công cuộc thăm dò tiên khởi đều công nhận là các tranh trên tường trong các hang động rất tiêu biểu cho nghệ thuật tranh vẽ của Ấn độ, và đây là những bức tranh vừa xưa lại vừa đẹp nhất mà trước đó chưa hề được khám phá. Năm 1983, Ajanta được cơ quan UNESCO của Liên Hiệp Quốc xếp vào gia tài văn hóa của nhân loại.
Ajanta là một tu viện Phật giáo gồm 29 hang động đục sâu vào vách núi tạo thành các "ngôi chùa" và "tịnh xá". Vách núi là đá basalt, một loại đá núi lửa rất cứng. Trong số 29 hang động có ba hang còn bỏ dở dang chưa hoàn tất. Theo cách bố trí thì các hang được chia làm hai loại : loại thứ nhất là các hang "chính điện" hay "thiền đường" (chaitya) bên trong cùng là bệ thờ và nơi bệ thờ có một bảo tháp (stupa). Loại hang thứ hai là các hang "tịnh xá" (vihara) là nơi nghỉ ngơi và trú ngụ của tăng đoàn, gồm có một gian tập thể và nhiều phòng nhỏ.
Cách kiến trúc, tranh vẽ và điêu khắc trong hang cho thấy là Ajanta được thực hiện vào hai thời kỳ cách nhau khá xa. Thời kỳ thứ nhất kéo dài từ thế kỷ thứ II trước Tây lịch đến từ thế kỷ thứ I trước Tây lịch và chịu ảnh hưởng rõ rệt của Phật giáo Nguyên thủy (Therevada). Cách trang trí trong thời kỳ này khá đơn giản và kém phần hoa mỹ, đặc biệt nhất là không có một biểu tượng nào tượng trưng cho Đức Phật. Các hang động Ajanta có thể đã bị bỏ hoang từ thế kỷ thứ VI, tuy nhiên theo 1 vài tư liệu khác thì tăng đoàn vẫn còn lưu lại tại Ajanta cho đến thế kỷ thứ VIII trước khi rời bỏ nơi này. Nơi trú ngụ của Đức Phật và tăng đoàn
Cho đến nay người ta không hoặc chưa tìm thấy được một di tích kiến trúc Phật giáo nào được xây dựng vào thời kỳ Đức Phật còn tại thế, kể cả trong các giai đoạn đầu tiên của các tăng đoàn sau khi Vị Thầy của họ đã tịch diệt. Vào thời kỳ khi Đức Phật còn tại thế thì chưa có chùa chiền như ngày nay vì Đức Phật chủ trương một lối sống hoàn toàn tự do không bị trói buộc vào các sinh hoạt và lo toan thế tục, và cũng không dừng lại một nơi cố định nào cả. Theo lời giáo huấn của Ngài thi nếu người đã tu hành mà còn lăn mình vào những mối bận tâm của thế tục, còn bám víu vào những tiện nghi vật chất và một môi trường sống cố định để nuôi dưỡng thói quen của mình thì nhất định họ sẽ không thể nào tu tập đc.
Nếu một người tu hành chưa đủ nghị lực vượt lên trên những trói buộc bên ngoài thì làm thế nào có đủ khả năng để loại bỏ những xung đột bên trong tâm thức của chính mình. Dựa theo các kinh sách xưa của Nam tông thì khi Đức Phật còn tại thế chỉ có hai loại "kiến trúc" có mái che hẳn hoi có thể tạm gọi là "nhà cửa" để giúp cho người tu hành che thân và tạm trú. Loại thứ nhất gọi là "avasa", tức là những túp lều do các vị tỳ kheo tự tay cất lấy để tạm trú trên đường hoằng Pháp hoặc để an cư vào mùa kiết hạ. Các "kiến trúc" này thật ra chỉ là những chiếc "am" được dựng lên bằng cành lá của cây rừng hoặc bằng các vật liệu tìm được trong các vùng nông thôn. Các nơi trú ẩn này chỉ có tính cách tạm thời vì sự sinh hoạt của tăng đoàn rất linh động không bám vào một nơi cố định nào cả. Loại "kiến trúc" thứ hai gọi là "arama" hay "vihara" tức là các "tịnh xá" do các người thế tục giàu có cúng dường và rất có thể họ cũng tiếp tục đứng ra phụ giúp tăng đoàn trong việc bảo trì bởi vì Đức Phật và tăng đoàn là những người sống bằng khất thực nên không có tiền của gì cả. Tịnh xá là các kiến trúc cố định khang trang và có tính cách lâu bền hơn các "am cỏ" được dựng lên trên đường hoằng Pháp. Các tịnh xá nổi tiếng nhất được kinh sách ghi chép là vườn Trúc lâm (Venuvana) gần thành Vương Xá (Rajagrha) và vườn Kỳ Viên(Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sravasti), và dầu sao thì đấy cũng chỉ là những nơi dừng chân của Đức Phật và tăng đoàn mà thôi. Tuy nhiên Đức Phật thường lưu lại vườn Kỳ Viên nhiều hơn các nơi khác, nhất là trong hai mươi năm trước khi Ngài nhập diệt.
Nguồn: facebookTrịnh Sơn