Đức Phật có để tóc hay không, tướng nhục kế là gì?

Thứ tư, 17/07/2019, 20:27 GMT+7

    Tại sao trong các chùa tượng và hình ảnh của các đức Phật thì có để tóc xoắn, đang khi các tu sĩ phải cạo đầu trọc, xin thầy giải thích giúp con hiểu rõ.

    HỎI:

    Tại sao trong các chùa tượng và hình ảnh của các đức Phật thì có để tóc xoắn, đang khi các tu sĩ phải cạo đầu trọc, xin thầy giải thích giúp con hiểu rõ ạ?

    ĐÁP:

    Ở tuổi 29, Thái tử Tất Đạt Đa đã từ bỏ cơ hội làm vua và quyết tìm kiếm con đường chân lý. Ngài vượt thành Ca tỳ la vệ và khi qua khỏi sông A-nô-ma, thái tử Tất Đạt Đa đã dùng thanh gươm cạo sạch râu tóc và gởi râu tóc đó cho người hầu là Xa-Nặc mang về hoàng cung trình với đức vua Tịnh Phạn rằng thái tử Tất Đạt Đa không chết đi mà người đang tìm con đường chân lý và hẹn ngày tái ngộ.

Thái tử Tất Đạt Đa đã dùng thanh gươm cạo sạch râu tóc và gởi râu tóc đó cho người hầu là Xa-Nặc mang về hoàng cung trình với đức vua Tịnh Phạn rằng thái tử Tất Đạt Đa không chết đi mà người đang tìm con đường chân lý và hẹn ngày tái ngộ.

Thái tử Tất Đạt Đa đã dùng thanh gươm cạo sạch râu tóc và gởi râu tóc đó cho người hầu là Xa-Nặc mang về hoàng cung trình với đức vua Tịnh Phạn rằng thái tử Tất Đạt Đa không chết đi mà người đang tìm con đường chân lý và hẹn ngày tái ngộ.

    Trong 6 năm tu khổ hạnh thì Thái tử không cạo tóc vì tu khổ hạnh và không bận tâm đến hình thể của mình. Nhưng sau khi giác ngộ, mỗi tháng đức Phật đều cạo đầu và các đệ tử của Ngài cũng cạo đầu theo.

    Có lần đức Phật dạy các tu sĩ, mỗi ngày và tối thiểu nửa tháng sờ trên đầu mình để biết rất rõ là mình không còn tóc nữa và biến đầu trọc này trở thành thông điệp: vì tôi là người xuất gia từ bỏ cái răng, cái tóc vốn là gốc con người; tôi phải trở thành là một thánh nhân. Tôi phải phấn đấu để trở thành nhân cách đặc biệt hơn những người phàm tục khác. Và râu tóc được đức Phật ví như là biểu tượng của người đời, của các hành vi phàm, của lối sống phàm và cạo râu tóc là thông điệp vượt trên lối sống phàm đó.

    Các nghệ nhân bao gồm thợ điêu khắc chạm trổ và các họa sĩ khi khắc chạm và vẽ tượng hay ảnh của Đức Phật thì dựa vào 32 tướng đại nhân được mô tả trong các Kinh. Một trong 32 tướng đại nhân mà đức Phật có là tướng tóc xoắn mà theo nhân tướng học Ấn độ là biểu tượng của người thông minh. Và theo một số kinh sách, đức Phật có tướng tốt nhục kết và tóc xoăn thành vòng theo chiều bên phải nên khi tạc tượng, hay vẽ tranh ảnh ngài, tướng nhục kế và tóc xoăn hình trôn ốc được khắc họa nổi bật khiến chúng ta được khắc họa nổi bật khiến chúng ta thấy như chỉ có các Tỷ kheo và Tỷ kheo ni mới cạo tóc, còn Phật thì không.

    Đó là nhân tướng học, còn khi đức Phật đi xuất gia cho đến lúc ngài qua đời thì đức Phật cạo tóc đều mỗi tháng. Nhưng vì chúng ta quen 32 tướng đại nhân đó mà ở Trung quốc và Việt Nam thường dịch trật là 32 tướng tốt cho nên khi nắn tượng và vẽ hình đức Phật thì người ta vẫn quen việc để tóc cho Ngài để nhấn mạnh.

Trong tướng nhục kế, có cái đỉnh điểm mà tất cả trời người đều không thể thấy được nên gọi là vô kiến đảnh tướng. Quán Phật Kinh (q.3) ghi, búi tóc thịt trên đỉnh đầu Đức Phật sinh ra vạn ức ánh sáng, lớp lớp ánh sáng lần lượt chiếu rọi tới vô lượng thế giới.

Trong tướng nhục kế, có cái đỉnh điểm mà tất cả trời người đều không thể thấy được nên gọi là vô kiến đảnh tướng. Quán Phật Kinh (q.3) ghi, búi tóc thịt trên đỉnh đầu Đức Phật sinh ra vạn ức ánh sáng, lớp lớp ánh sáng lần lượt chiếu rọi tới vô lượng thế giới.

    Nhục kế, theo Từ điển Phật học Huệ Quang (tập IV, tr.3384), Phạn ngữ Usnisa, Hán dịch Phật đảnh, Đảnh nhục kế tướng, Đảnh phát nhục cốt thành tướng… là thịt xương (có sách nói búi thịt-nhục) trên đảnh của Phật nổi cao lên như búi tóc (kế), 1 trong 32 tướng Đại trượng phu của chư Phật.

    Theo Phật Bản Hạnh Tập Kinh (q.9), nhục kế trên đảnh Phật cao rộng, bằng phẳng tốt đẹp. Kinh Tam Thập Nhị Tướng (Trung A Hàm) ghi, trên đảnh của bậc Đại nhân có tướng nhục kế tròn đầy. Kinh Quán Vô Lượng Thọ (q.thượng) mô tả nhục kế trên đảnh Phật như hoa Bát-đầu-ma, trên nhục kế có một bình báu đựng các thứ ánh sáng, hiện tất cả Phật sự. Kinh Brahmayu (Trung Bộ kinh), kinh Tướng (Trường Bộ kinh) đều ghi nhận tướng tốt nhục kế nhô lên trên đỉnh đầu của Phật.

    Chư Phật và Bồ tát đều có tướng nhục kế, nhưng tướng nhục kế của chư Phật thù thắng hơn chư Bồ tát rất nhiều lần. Tướng nhục kế hình thành nhờ công đức tu hành trong vô lượng đời kiếp ở quá khứ. Kinh Bảo Nữ Sở Vấn (q.4) ghi, chư Phật có tướng nhục kế nhờ các đời quá khứ biết kính thờ hiền Thánh và các bậc tôn trưởng.

    Kinh Vô Thượng y (q.hạ) ghi, ngoài việc tu thập thiện, Bồ tát còn hóa độ dẫn dắt chúng sanh tu hành, thấy người tu hành liền hoan hỷ khen ngợi, lại dùng bốn tâm vô lượng từ bi hỷ xả mà phát tâm hoằng hóa, nhiếp dẫn chúng sanh trở về Chánh pháp. Nhờ những nghiệp nhân này mà thành tựu tướng tốt nhục kế nổi cao lên tự nhiên thành búi tóc. Ngoài ra, một số kinh luận khác nói nhờ các nhân duyên như bố thí, trì giới, thiền định… mà thành tựu tướng hảo này.

    Trong tướng nhục kế, có cái đỉnh điểm mà tất cả trời người đều không thể thấy được nên gọi là vô kiến đảnh tướng. Quán Phật Kinh (q.3) ghi, búi tóc thịt trên đỉnh đầu Đức Phật sinh ra vạn ức ánh sáng, lớp lớp ánh sáng lần lượt chiếu rọi tới vô lượng thế giới. Các trời người và thập địa Bồ tát cũng không thể thấy. Vô kiến đảnh tướng cũng là một trong 80 vẻ đẹp của Thế Tôn. Kinh Ưu Bà Tắc Giới (q.1) cho biết, vô kiến đảnh tướng có được nhờ công đức trong vô lượng đời kiếp đều lễ bái tất cả Thánh hiền, sư trưởng, cha mẹ, tôn trọng khen ngợi, cung kính cúng dường.

Nhục kế và vô kiến đảnh tướng là tướng hảo biểu thị trí tuệ của chư Phật. Cùng với tướng nhục kế (búi thịt nhô cao) và vô kiến đảnh tướng là một tướng tốt khác, tóc xoăn thành vòng theo chiều bên phải. Vì thế, khi tạo hình tượng Phật thì những nghệ nhân phải thể hiện được các tướng tốt này (nhục kế nhô cao, tóc xoăn), cùng các tướng tốt khác. Do đó, nhìn vào tranh tượng Phật, ta thấy Ngài có tóc, còn các vị đệ tử xuất gia thì chỉ thuần túy “đầu tròn, áo vuông”.

    Trong một số kinh điển, các vị đạo sĩ Bà la môn biếm nhẽ đức Phật Thích Ca là “Sa môn đầu trọc” vốn để phân biệt khác với Sa môn Kỳ Na giáo tức là Sa môn tu hạnh không mặc áo quần và Sa môn duy vật tức là những người chủ trương vật chất là nguyên nhân đầu tiên. Cho nên biệt hiệu của ngài là “Sa môn đầu trọc”.

    Sa môn được hiểu nôm na là ông thầy tu không tin vào Thượng đế và số phận. Về sau này thì trong Phật giáo ít dùng đến khái niệm Sa môn mà gọi là Tăng sĩ thôi, không nêu rõ đạo Phật là đạo vô thần.

    Vào thời đức Phật người ta gọi ngài là sa môn Gôtama, tức là tăng sĩ vô thần hay thầy tu vô thần có họ là Gôtama. Đệ tử gọi Ngài là Thích Ca Mâu Ni Phật nghĩa là bậc Giác ngộ, bậc hiền triết của nước Sakya vậy thôi.

TT Thích Nhật Từ

Ý kiến của bạn