Viên tịch và Tân viên tịch

Thứ sáu, 01/11/2019, 14:03 GMT+7

     Trước đây, ta ít khi nghe và thấy chữ "Tân Viên Tịch" trong các văn thư, cáo phó, nhưng gần đây chữ "Tân Viên Tịch" nhiều hơn trước để chỉ sự kiện một vị Tôn Đức Tăng Ni Giáo Phẩm vừa viên tịch. Vậy trong thực tế có sự khác nhau giữa viên tịch và tân viên tịch không?

    Trong Kinh Luận Đại Thừa thì có Tân Vãng Bồ Tát và Cựu Trụ Bồ Tát, tức là tên gọi để phân biệt Bồ Tát mới vãng sinh về cõi Tịnh Độ với Bồ Tát đã trụ ở cõi Tịnh Độ từ trước.  Nhưng đấy là một phạm vi kinh luận khác còn chữ "Tân" trong "Tân Viên Tịch" chỉ thuần là phạm vi ngôn ngữ mà thôi.  Về phương diện ngôn ngữ học thì chữ "tân" được dùng dưới ý nghĩa tỉnh từ (mới / new) nhiều hơn trạng từ (vừa / newly / recently) như tân hôn, tân lang, tân giai nhân, tân gia, v.v...; tuy thỉnh thoảng cũng có dùng, ở vị trí trạng từ, nhưng ít lắm, như tân trang, tân tạo.  Trong chữ "tân viên tịch" thì chữ "tân" (mới, vừa xảy ra) là trạng từ; chữ "viên tịch" là động từ. Chữ "tân" trong "tân viên tịch" hoàn toàn không mang ý nghĩa "mới" (tân / new / tỉnh từ) để đối chiều với "cũ" (cựu / old, former / tỉnh từ) mà chỉ mang ý nghĩa "vừa xảy ra" (tân / newly, recently / trạng từ).

akn1

    Về phương diện kinh luận Phật học thì chữ "tân viên tịch" cũng không được khế lý mặc dầu trong ý nghĩa xã hội thì có vẻ khế cơ. Viên tịch hay niết bàn (Sancrit: Nirvàna / Pali: Nibbàna / Nir là không, không còn, không có; Vàna là vọng, tham, dục, dục vọng, tham vọng, vọng tưởng) là một biến cố cấp kỳ, xảy ra trong sát-na chớp nhoáng (mỗi ngày có 24 giờ và gồm 4.800.000 sát-na) như thổi tắt ngọn đèn, và có nghĩa là diệt tận vòng quay sinh tử luân hồi, hoàn toàn giải thoát để vào một cõi sống khác đầy an lạc. Khoảnh khắc viên tịch như một niệm, khởi lên và tan biến ngay lúc đó như khi ta nghĩ về, nhớ đến hình ảnh người thân yêu thì hình ảnh đó hiện ra ngay cho dầu người thân của chúng ta đang ở đâu đó trên trái đất này. Tình trạng đau yếu, và thời gian bệnh hoạn, kể cả khoảng thời gian lâm chung và trăn trối không phải là thời điểm viên tịch mà là giai đoạn trả nghiệp mà người lâm chung đã tạo ra trong cuộc đời của họ. Để hình dung được sự viên tịch và hành viên tịch thì phải hiểu sát-na là gì?

" Nhất sát-na vi nhất niệm.

Nhị thập niệm vi nhất thuấn.

Nhị thập thuấn vi nhất đàn-chỉ.

Nhị thập đàn-chỉ vi nhất la-dự.

Nhị thập la-dự vi nhất tu-du.

Nhất nhật nhất dạ hữu tam thập tu-du.

一刹那为一念

二十念为一瞬

二十瞬为一弹指

二十弹指为一罗预

二十罗预为一须臾

一日一夜有三十须臾

1 sát-na là 1 niệm

20 niệm là 1 thuấn

20 thuấn là 1 đàn-chỉ

20 đàn-chỉ là 1 la-dự

20 la-dự là 1 tu-du

1 ngày 1 đêm có 30 tu-du."

["Nhất Sát-Na" Thị Đa Cửu / Huỳnh Chương Hưng dịch]

    Như vậy trọn mỗi một ngày đêm trong 24 giờ thì có 4.800.000 sát-na và được tính như sau:

    30 tu-du x 20 la-dự x 20 đàn-chi x 20 thuấn x 20 niệm = 4.800.000 niệm mà mỗi niệm là một sát-na.

Chữ “Tân Viên Tịch” được dùng từ ngày viên tịch cho đến khi xong Lế Giỗ lần thứ nhì, tức là mãn phục Đại Tường, và sau đó là Lễ Thỉnh Nhập Tổ Vị.

Chữ “Tân Viên Tịch” được dùng từ ngày viên tịch cho đến khi xong Lế Giỗ lần thứ nhì, tức là mãn phục Đại Tường, và sau đó là Lễ Thỉnh Nhập Tổ Vị.

    Ngôn ngữ là một quy ước không thuần lý nên ở đây, là người Phật tử, chúng ta nên hiểu rõ sự khác nhau giữa hai chữ “Viên Tịch” và “Tân Viên Tịch” do tập tục lâu đời trong sinh hoạt sơn môn như sau. Và ở đây cũng cần nói qua về ý nghĩa hai chữ “sơn môn” và “hệ phái.” Sơn môn nghĩa đen là cổng chính của một ngôi chùa được kiến lập ở chốn núi rừng, nghĩa thông thường là cửa chùa, nhưng nghĩa rộng thường được dùng trong nhóm chữ “sơn môn hệ phái” thì sơn môn là chùa Tổ, là Tổ đình, là môn phái trong Phật giáo. Sơn môn và hệ phái được hiểu như là một chi nhánh, một cấp nhỏ hơn của một Tông chính.

    Khi một vị Tôn Đức Tăng Ni Giáo Phẩm cao cấp như các bậc Cao Tăng, Trưởng Lão, Đại Lão Hòa Thượng, Đại Lão Ni Trưởng, Hòa Thượng, Ni Trưởng hay vị Phương Trượng, Trụ Trì, Viện Chủ từ trần thì theo tập tục sơn môn, vị Tăng sĩ phụ trách giới luật, thanh quy phải viết tôn kính vị Tôn Đức đó là “Hòa Thượng, Thượng Tọa Tân Viên Tịch” để bày tỏ lòng thương tiếc và kính trọng theo đúng tinh thần văn hóa “tôn lão, kỉnh trưởng” của dân tộc Việt Nam. Chữ “Tân Viên Tịch” được dùng từ ngày viên tịch cho đến khi xong Lế Giỗ lần thứ nhì, tức là mãn phục Đại Tường, và sau đó là Lễ Thỉnh Nhập Tổ Vị.

    Khi một vị Tôn Đức Tăng, Ni còn tương đối trẻ tuổi và chưa giữ trách nhiệm Trụ Trì, Viện Chủ mà từ trần vì bất cứ nguyên do gì thì chúng ta, môn đồ, Pháp quyến, và đồng bào Phật tử xa gần vẫn chỉ nói và viết "Thượng Tọa / Đại Đức (Pháp danh) vừa viên tịch lúc giờ - ngày như xưa nay mà thôi.

Trần Việt Long

 

Ý kiến của bạn