/

Nhập Bồ Tát Hạnh - Thích Nữ Trí Hải dịch

Thứ ba, 10/09/2019, 15:34 GMT+7

NHẬP BỒ TÁT HẠNH

        Nhập Bồ Tát Hạnh là bộ Luận của Bồ-tát Tịnh Thiên trước tác

        * Dịch giả : Thích Nữ Trí Hải

        * Nhà xuất bản : Nhà xuất bản Hồng Đức

        * Năm xuất bản : 2014

        * Số trang : 316

bo-tat-hanh_0001

    Lời Giới Thiệu:

    Bộ luận Nhập Bồ Tát Hạnh là một kiệt tác của Phật giáo Ấn Ðộ, không những trên phương diện tư tưởng, tu chứng, mà còn cả trên phương diện văn học. Nó đã đem lại niềm vui cho biết bao nhiêu thế hệ. Tương truyền ở Ấn Ðộ đã có hơn một trăm bộ chú thích cho bộ luận này, và ở Tây Tạng nó đã trở thành một trong sáu bộ luận "gối đầu" cho những kẻ học Phật.

    Bộ luận này được truyền đến Trung Hoa vào đời Triệu Tống, lúc ấy Phật giáo vừa trải qua cơn pháp nạn khốc liệt thời Ðường Vũ Tông, kế tiếp lại bị nhiều nạn đao binh phá hoại trong thời Ngũ Ðại, cho nên sinh khí của Phật giáo lúc bấy giờ gần như bị kiệt quệ, ngoài Thiền Tông và Tịnh Ðộ Tông ra, các tông phái khác gần như tuyệt tích. Hơn nữa, vào thời đó, các vị tăng sĩ ít còn "hứng thú" trong việc khảo cứu các tác phẩm mới được phiên dịch từ Ấn Ðộ, và vì lý do này, hầu hết các dịch phẩm mới dưới thời Triệu Tống ít được các nhà học Phật để ý đến, mà một "nạn nhân chính" trong đó là bộ Nhập Bồ Tát Hạnh này. Một điều tệ hại nữa là bản dịch của ngài Thiên Tức Tai, một vị cao tăng Ấn Ðộ, không những thiếu sót nhiều chỗ, mà văn chương lại tối tăm khó hiểu, thành thử số phận của nó lại càng hẩm hiu. Kết quả là bộ luận này đã bị bỏ quên trong bộ Ðại Tạng Kinh của Trung Hoa hơn một ngàn năm mà không ai biết đến. Trái lại, ở Tây Tạng sự lưu truyền rất được thịnh hành, và gần đây ở Âu Tây phong trào nghiên cứu bộ luận này càng lúc càng trở nên rầm rộ. Theo như sự hiểu biết của tôi, đã có hơn mười bộ: nào phiên dịch, nào chú giải, nào luận án nghiên cứu bằng tiếng Anh đã được xuất bản, chưa kể đến các ngôn ngữ khác như Nhật, Ðức, Pháp, Ý, v.v... Ðiều này chứng tỏ nó phải có một giá trị nào đó mới có thể thu hút được sự chú ý của nhiều người như thế. Sự đặc sắc của bộ luận này có thể được nhìn từ hai phương diện:

    (Một) Phương diện tư tưởng: Ngài Tịch Thiên trên phương diện trước tác chỉ để lại vỏn vẹn có hai (có chỗ nói ba)Õ tác phẩm chính, tức là bộ luận này cùng bộ Học Xứ Tập Yếu. Tuy số lượng ít oi như thế, chỉ cần nhìn vào hai tác phẩm này, chúng ta có thể quả quyết rằng không những ngài là một học giả uyên bác mà còn là một nhà tư tưởng cao siêu. Trong chiếc áo nhà tu, Tịch Thiên đã biểu hiện cho chúng ta biết rằng ngài không những là một bậc trí tuệ siêu phàm, mà còn là một kẻ rạt rào tình cảm. Lý trí và tình cảm không bắt buộc phải bị tách đôi như các nhà triết học Tây phương quan niệm, mà lý có thể hợp nhất với tình. Vì lý do này, Phật giáo Ðại thừa chú trọng nhiều đến phương diện tình cảm, vì nếu tình cảm được đặt đúng vị trí, nó sẽ trở thành một động lực căn nguyên của tâm Ðại Từ Bi. Mà muốn thành Phật thì phải có đủ cả hai đức tính, tức là từ bi và trí tuệ. Thiếu một không thể được!

    Phát Bồ Ðề Tâm! Tu Bồ Tát Hạnh! Nghe qua thì có vẻ đơn giản, nhưng chắc chắn không phải là công việc của một kẻ tầm thường. Ðây là khung trời của những kẻ mà ý chí cao vượt đến những dãy ngân hà xa tít, của những kẻ mà tâm nguyện kiên cường vững chãi hơn trăm ngàn thành lũy, của những kẻ mà trăm ngàn lưỡi đao bén nhọn không làm cho họ nao núng, và trăm ngàn sự vui cõi trời không làm họ xao động! Ai là kẻ có thể nắm giữ được gia nghiệp của Ðức Như Lai? Ai là kẻ có thể làm xán lạn cho gia tộc Phật? Những kẻ mà chí nguyện cứng chắc hơn trăm ngàn kim cương đó, lại có thể là những kẻ vì chúng sinh mà chảy dòng lệ nhạt nhòa như người mẹ hiền nức nỡ trước nỗi khổ của đứa con mình. Từ những dòng tư tưởng của bộ luận này chúng ta có thể thấy được, một cách mông lung, tầm kích vĩ đại của con người Tịch Thiên!

    (Hai) Phương diện thực tiễn tu hành: Ðiều trọng đại nhất cho hành giả bắt đầu dấn bước trên con đường tu hạnh Bồ Tát là sự phát tâm Bồ Ðề. Phát tâm Bồ Ðề là sự chuyển mình của hành giả từ thân phận tầm thường của một phàm phu vào đến tầm kích của vũ trụ. Ðây là sự biểu hiện của một nhân cách vĩ đại nhất, mà không có một hệ thống triết học hay tôn giáo nào có thể tự hào. Khi mà hành giả đã lột bỏ được bộ quần áo tâm linh cũ nát của mình, thay vào đó bằng bộ quần áo lộng lẫy Bồ Ðề Tâm, trên phương diện "người", hành giả đã trở nên cao quí hơn tất cả phàm phu:

Kẻ tù ngục sinh tử
Nếu phát Bồ Ðề tâm
Tức khắc tên Phật tử
Trời người nên cung kính!

    Trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ tát Di Lặc đã mô tả cho Thiện Tài một cách tỉ mỉ hành trạng của tâm Bồ Ðề như sau: "Bồ đề tâm như hạt giống vì từ đó sinh ra hết thảy Phật pháp. Bồ đề tâm như ruộng tốt vì nơi đây sản xuất các thứ thuần tịnh cho thế gian. Bồ đề tâm như cõi đất vì gìn giữ tất cả thế gian. Bồ đề tâm như dòng nước vì rửa sạch tất cả cáu bẩn của tham dục. Bồ đề tâm như ngọn gió vì thổi khắp thế gian không có gì làm trở ngại. Bồ đề tâm như ngọn lửa vì đốt cháy tất cả củi hý luận. ......... Bồ đề tâm như cha lành vì bảo hộ hết thảy các Bồ tát. Bồ đề tâm như mẹ hiền vì dưỡng dục hết thảy Bồ tát. Bồ đề tâm như nhũ mẫu vì chăm sóc hết thảy Bồ tát. ......... Bồ đề tâm như người tỉnh thức vì đẩy lui tất cả cái xấu xa. Bồ đề tâm như lưới trời Ðế thích vì nó khuất phục những quỷ phiền não a tu la. Bồ đề tâm như lửa trời Ðế thích vì nó đốt cháy tất cả công năng tập quán, tham dục và phiền não bất tịnh. Bồ đề tâm như tháp thờ xá lợi vì hết thảy thế gian, loài người và loài a tu la kính ngưỡng." Rồi Bồ tát Di Lặc kết luận: "Này thiện nam tử, Bồ đề tâm thành tựu vô lượng công đức tuyệt diệu như vậy. Tóm lại Bồ đề tâm cũng đồng như Phật pháp và các công đức của quả Phật. Tại sao thế? Bởi vì, chính từ Bồ đề tâm mà hạnh của Bồ tát bắt đầu khởi hành, và cũng chính từ đó mà hết thảy Như Lai trong quá khứ, hiện tại và vị lai xuất hiện ở thế gian. Vì vậy, này thiện nam tử. Một khi ước vọng giác ngộ tối thượng được phát khởi, thì vô số công đức cũng được phát sinh, và cả đến ý thức ẩn áo nhất của Nhất thiết trí cũng phát sinh từ đó." (Trích từ Thiền Luận của Suzuki, bản dịch của Tuệ Sỹ)

    Thế nhưng, trong quá trình trui luyện chí nguyện Bồ tát, các công hạnh tuy có đa dạng, nhiều đến vô lượng, song mục đích không ngoài sự việc cốt yếu là buông bỏ "tự ngã". Suzuki trong quyển "Khai Ngộ Ðệ Nhất" có nói: "Lúc mà chúng ta buông bỏ tự ngã cũng chính là lúc tha lực hiển hiện." Khi mà hành giả tìm đến bờ vực của tâm linh, trong sự thành khẩn tha thiết đến cực độ của mình, trong phút giây bàng hoàng đó, hành giả có thể tạm thời quên mất tự ngã. Và chính trong giây phút huyền diệu đó, lạ lùng thay, tha lực hiển hiện như một luồng ánh sáng chan hòa! Trong giây phút tuyệt vời đó, không còn sự phân biệt giữa tự và tha, mình và đối tượng của mình là một! Và ngay chính trong sự tha thiết đến cùng độ đó, lại chính là giây phút hành giả thể nghiệm được chân lý, và đây cũng chính là một sự thể ngộ về Tính Không!

    Dịch bản tiếng Việt này của bộ Nhập Bồ Tát Hạnh là một công trình kiệt xuất của Ni sư Trí Hải. Ni sư không những dịch thành văn xuôi mà lại còn dịch cả thành văn vần, cả hai đều có thể gọi là những dịch phẩm quan yếu cho Phật giáo Việt Nam. Ðây là một sự đóng góp lớn lao, không những cho nền văn hóa Phật giáo Việt Nam nói riêng, mà cho cả nền văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung. Tôi cũng đã may mắn được nghiên cứu qua tác phẩm vĩ đại của ngài Tịch Thiên và đã phiên dịch bộ luận này theo thể tài kệ tụng bốn câu năm chữ, đồng thời cũng đã viết xong một quyển chú giải, song nhận thấy rằng chúng chỉ là những viên sỏi vụn hoàn toàn không giá trị; nay có nhân duyên gặp được "trân châu bảo ngọc" này, bèn không ngần ngại, vội vàng vứt đi những viên sỏi vụn "sần sùi" đó, chắp tay kính cẩn dâng lên hai dịch phẩm quý giá này đến quý vị độc giả, đồng thời phát tâm "hợp đính" để tiện lợi cho người đọc, nếu không thể lãnh hội phần văn vần, có thể tham khảo thêm phần văn xuôi để lãnh hội thêm ý chỉ uyên thâm của bộ luận.

    Hai phần văn xuôi và văn vần có được là nhờ sư huynh của tôi, thầy Thích Pháp Quang, trụ trì chùa Tịnh Luật ở Texas, liên lạc với Ni sư Trí Hải ở Việt Nam, gửi qua cho thầy bằng "email". Khi nhận được hai phần này từ thầy Pháp Quang, tôi cảm thấy vui mừng như "kẻ khát được cam lộ, kẻ nghèo gặp ngọc quý" bèn không quản tài học thô thiển của mình viết lên vài hàng giới thiệu hầu kết duyên với tất cả những hành giả "đã, đang, hoặc sẽ phát tâm học tập Bồ tát hạnh", và cũng nhân đây "phát lộ" với tất cả đại chúng rằng mình đã được "diễm phúc" tắm gội trong hào quang của Tam Bảo cùng ánh sáng chói ngời của con người vĩ đại Tịch Thiên!

    Nguyện đem công đức truyền bá "áo nghĩa" của Ðại thừa này hồi hướng đến thân mẫu, Sư cô Thích Nữ Chúc Phước, đàn na tín chủ, cùng tất cả chúng sinh. Nguyện tất cả những ai thấy nghe, hoặc tin không tin, hoặc hiểu không hiểu, hoặc khen hoặc chê, hoặc kính hoặc hủy, đều đời đời trở thành Pháp quyến của nhau, dìu dắt nâng đở nhau, cho đến ngày tất cả đều thành Chánh Giác. Xin tất cả hãy cùng nhau phát lên lời thệ nguyện vĩ đại của Tịch Thiên:


Cho đến tận hư không,
Nơi nào có chúng sinh,
Nguyện sẽ đến nơi đó,
Diệt khổ đau cho họ!

   -----> Mượn sách: xin liên hệ Văn phòng chùa Bửu Đà - Phòng Thư Viện

 

Ý kiến của bạn